Diễn từ Nobel của Aleksandr Solzhenitsyn

Tại sao Blog cờ vây mà có cái bài nhìn hổng liên quan vậy?

Có liên quan đó. Chơi cờ hay đọc văn học thì đều để là sống.

Nói chứ blog tôi, tôi thích đăng gì thì kệ chớ. Hơ hơ.

 

Diễn từ Nobel

Dịch giả: Đoàn Tử Huyến

1.

Như một gã dã nhân ngớ ngẩn nhặt được một vật lạ – vừa bị đại dương ném lên? lộ ra từ trong cát? hay từ trên trời rớt xuống? – với những đường cong bí ẩn ánh lên khi mờ khi chói, – hắn ta đảo đi đảo lại trên tay, nghĩ xem có thể dùng nó vào việc gì, cố tìm hiểu những khả năng sử dụng đơn giản của vật tìm thấy mà hoàn toàn không nghĩ đến những công năng cao cấp của nó.

Chúng ta cũng vậy, nắm Nghệ Thuật trong tay, ngạo mạn tự phong cho mình là chủ nhân của nó, định hướng nó một cách táo bạo, làm mới, cải tạo, tuyên ngôn, bán lấy tiền, lấy lòng kẻ mạnh, biến nó khi thì để giải trí – đến thành cả những ca khúc nhạc nhẹ và quán đêm, khi thì – làm cú đấm hay làm gậy, tùy dịp – cho những nhu cầu chính trị nhất thời, nhưng đòi hỏi xã hội hạn hẹp. Còn nghệ thuật – vẫn không bị vấy bẩn bởi những mưu toan của chúng ta, không vì thế mà đánh mất nguồn gốc của mình, lần nào và ở cách sử dụng nào cũng giành cho chúng ta một phần ánh nội quang bí ẩn của mình.

Nhưng liệu chúng ta có ôm trọn được hết toàn bộ cái ánh sáng đó? Có ai dám nói rằng đã định nghĩa được Nghệ Thuật? đã liệt kê hết tất cả các phương diện của nó? Mà có thể trong các thế kỉ quá khứ, nó đã được hiểu, được gọi tên, nhưng chúng ta chỉ có thể dừng lại không lâu: chúng ta đã nghe, và đã xem thường, và liền đó vứt đi, như chúng ta vẫn thường xuyên vội vã đem đổi dù là cái tốt nhất để lấy một cái gì đó chỉ cần mới là được! Rồi khi lại được nghe nói về cái cũ thì chúng ta không còn nhớ là mình đã từng có nó.

Một vị nghệ sĩ tưởng chừng mình là đấng sáng tạo của thế giới tinh thần độc lập, và tự chất lên đôi vai của mình cái hành động sáng tạo ra thế giới đó, cư dân của nó, trách nhiệm vô biên đối với nó, nhưng liền bị gãy sống lưng – vì một sức nặng như thế thì một kẻ thiên tài trần thế làm sao kham nổi; cũng như nói chung con người, tự tuyên bố mình là trung tâm của sinh tồn, không thể tạo nên hệ thống tinh thần cân bằng. Còn nếu như gặp thất bại, họ sẽ đổ tất cả lên sự bất xứng muôn đời của thế giới, lên sự phức tạp của tâm hồn tơi tả hiện đại hoặc lên sự tối dạ của công chúng.

Một người khác tự biết sức mạnh tối cao ngự trị trên mình và hân hoan làm một chân thợ phụ nhỏ bé dưới bầu trời của Chúa, mặc dù trách nhiệm của anh ta đối với những gì được viết, được vẽ ra, đối với những tâm hồn tiếp nhận càng nghiêm túc hơn. Bù lại, thế giới này không phải do anh ta tạo ra, không phải do anh ta cai quản, không có nghi ngờ trong những căn gốc của nó, người nghệ sĩ chỉ được trao cho khả năng cảm nhận sâu, nhạy hơn người khác sự hài hòa của thế giới, vẻ đẹp và xấu của sự đóng góp của con người vào thế giới – và truyền đạt lại cái đó một cách sắc sảo cho mọi người. Và trong những thất bại, thậm chí cả nơi đáy sâu của sự tồn tại – trong bần cùng, trong tù ngục, trong bệnh tật – cái cảm nhận sự hài hòa bền vững không thể rời bỏ anh ta.

Nhưng toàn bộ tính duy lí của nghệ thuật, những đường bay bất ngờ chói sáng, những thành tựu không đoán trước được, những tác động rung chuyển đối với con người của nó là quá thần diệu để có thể gói gọn nó bằng thế giới quan của người nghệ sĩ, bằng ý tưởng của anh ta hay bằng công việc của những ngón tay không xứng đáng của anh ta.

Các nhà khảo cổ học không phát hiện ra những giai đoạn tồn tại sớm của con người khi chúng ta chưa có nghệ thuật, ngay từ buổi tranh tối tranh sáng trước bình minh của nhân loại chúng ta đã nhận nó từ Bàn Tay mà chúng ta chưa kịp nhìn rõ. Và không kịp hỏi: cái quà tặng này cho chúng ta để làm gì? phải sử dụng nó như thế nào?

Và chúng ta đã sai lầm. Và sẽ sai lầm tất cả những ai đoán trước rằng nghệ thuật sẽ tàn suy, sẽ cạn kiệt các hình thức của mình, sẽ chết. Chúng ta chết, nhưng nghệ thuật sẽ còn lại. Và liệu cho đến lúc chết chúng ta có hiểu được tất cả những phương diện và những chức năng của nó hay không?

Không phải tất cả – có thể nói như vậy. Có cái sẽ đi xa hơn lời nói. Nghệ thuật làm ấm lại thậm chí cả một linh hồn nguội lạnh, u tối đối với một kinh nghiệm tinh thần cao cả. Thông qua nghệ thuật, đôi khi chúng ta được ban tặng những mặc khải, mơ hồ, ngắn gọn – mà một tư duy trí não không thể nào khám phá được.

Như tấm gương bé nhỏ trong các câu chuyện cổ tích: nhìn vào đó ta trông thấy – không phải bản thân mình – mà thấy trong một thoáng Cái Không Thể Ðạt Tới, cái ta không thể chạy, không thể bay đến. Và chỉ có tâm hồn trăn trở…

2.

Dostoevski 1 một lần buông lời đầy bí ẩn: “Cái đẹp sẽ cứu thế giới”. Ðó là cái gì? Rất lâu tôi cảm thấy đó chỉ đơn giản là một câu nói. Làm sao có thể như thế được? Cái đẹp đã cứu ai và cứu khỏi cái gì, khi nào trong lịch sử khát máu? Che chở, nâng đỡ – có thể; nhưng đã cứu được ai?

Nhưng có một điều đặc biệt trong bản chất cái đẹp, một điều đặc biệt trong vị thế nghệ thuật: sức thuyết phục của một tác phẩm nghệ thuật chân chính là tuyệt đối không thể chối bỏ và nó bắt quy thuận thậm chí cả những trái tim ương ngạnh. Có thể trên cơ sở sai lầm, thậm chí dối trá tạo dựng một bài phát biểu chính trị, một tác phẩm chính luận hùng hồn, một chương trình sinh hoạt xã hội, một hệ thống triết lí có vẻ ngoài trơn tru, cân đối: không thể nhìn thấy ngay được những gì ẩn giấu bên trong, những gì bị bóp méo. Và để tranh luận lại, sẽ có một phát biểu trái ngược, một tác phẩm chính luận, một chương trình, một hệ thống triết lí khác – và tất cả cũng lại cân đối, trơn tru, và lại ổn thỏa. Vì vậy mà đối với chúng, tất cả những cái đó, vừa tin đấy mà lại vừa không đáng tin.

Cái gì không thể thâm nhập được, thì chỉ là nói suông vô ích vào trái tim.

Còn các tác phẩm nghệ thuật đã mang trong mình một sự tự thử thách: những khuynh hướng giả tạo, gượng ép không chịu nổi những thử thách trên các hình tượng: chúng sẽ sụp đổ, sẽ rệu rã, nhợt nhạt, không thuyết phục được ai cả. Còn những tác phẩm tìm chứa sự thật và trình bày nó cho chúng ta một cách cô đúc – sinh động, thì sẽ chinh phục chúng ta, lôi cuốn chúng ta một cách mãnh liệt, – và sẽ không có ai, không bao giờ, thậm chí sau nhiều thế kỉ, phủ nhận chúng.

Vậy thì có thể cái bộ ba thống nhất Chân – Thiện – Mĩ già cỗi kia không đơn giản là một công thức cũ kĩ dùng để trưng bày như chúng ta đã từng cảm thấy vào cái thời tuổi trẻ duy vật ngạo mạn? Nếu như đỉnh ngọn của ba cái cây này sẽ chụm vào nhau, như các nhà nghiên cứu khẳng định, nhưng những thân cành quá thẳng thắn của cây Chân và cây Thiện bị chèn ép, bị đốn chặt, không vươn lên được, – thì liệu có thể chăng những thân cành lạ lùng, chúng ta không chờ đợi, không đoán trước được của cây Mĩ có lớn lên, vươn tới đúng vào chính cái chỗ đó, và như vậy thực hiện công việc thay cho cả ba cái cây hay không?

Và lúc đó câu nói “Cái đẹp sẽ cứu thế giới” của Dostoevski không phải là một sự buột miệng, mà là lời tiên tri? Bởi vì ông được ban cho khả năng thấy được nhiều điều, được khải thị kì diệu.

Và khi đó nghệ thuật, văn học có thể thực sự giúp đỡ thế giới ngày hôm nay hay không?

Những gì ít ỏi mà tôi đã nhìn ra được qua năm tháng trong cái nhiệm vụ này, tôi sẽ cố gắng trình bày ở đây hôm nay.

3.

Ðể bước lên cái bục này, cái bục đọc Diễn từ Nobel, cái bục không phải dành cho mọi nhà văn và chỉ được dành một lần trong đời, tôi đã phải đi qua không chỉ ba bốn bậc tam cấp bằng phẳng, mà là hàng trăm, thậm chí hàng ngàn bậc khó vượt, cheo leo, trơn lạnh, từ trong tối tăm và giá buốt, nơi tôi may mắn được sống sót, còn những người khác – có thể tài năng hơn tôi, khỏe hơn tôi – thì đã chết. Trong số họ chỉ có vài người bản thân tôi được gặp ở trong Quần đảo Gulag 2 với vô vàn đảo nhỏ nằm rải rác khắp nơi, và dưới những ánh nhìn dò xét và thiếu tin cậy không phải với ai cũng nói chuyện được, về những người khác chỉ nghe nhắc đến, về số thứ ba chỉ có thể đoán ra. Những ai rơi vào cái hố sâu đó khi đã có tên tuổi văn học, mặc dù nổi tiếng – nhưng biết bao nhiêu người không được nhận ra, không được một lần nào gọi tên công khai! và gần như – gần như không một ai trở về được. Cả một nền văn học dân tộc đã ở lại nơi đó, bị chôn vùi không chỉ không có quan tài, mà không có cả quần áo lót, trần truồng, với sợi xích nơi ngón chân. Nền văn học Nga không một khoảnh khắc nào bị đứt đoạn! – mà từ ngoài nhìn vào chỉ thấy như một chỗ hoang. Nơi đáng lí có thể mọc lên một cánh rừng đông đảo, chỉ còn lại sau tất cả những trận đốn chặt vài ba cây tình cờ bị bỏ qua. Và tôi hôm nay, được tháp tùng bởi những cái bóng của những người đã khuất, cúi đầu nhường bước những người khác xứng đáng sớm hơn đi lên chỗ này, tôi hôm nay làm sao đoán được và nói ra những gì mà họ muốn nói? Trách nhiệm này từ lâu đè nặng lên chúng tôi, và chúng tôi hiểu nó. Bằng lời của Vladimir Soloviov 3:

Và cả trong xích xiềng, chúng ta cần phải
Ði trọn vòng của Chúa đã vạch ra.

Trong những chuyến chuyển trại nhọc nhằn, trong đoàn người tù tội, trong bóng tối những chiều đêm lạnh giá với dải đèn le lói, – không phải một lần đã dâng lên tận cổ chúng tôi tiếng kêu muốn thoát ra cho cả thế giới, giá như thế giới có thể nghe thấy một ai đấy trong số chúng tôi. Khi đó điều này dường như rất rõ ràng: vị sứ giả may mắn của chúng tôi sẽ nói – và thế giới sẽ ngay lập tức lên tiếng đáp lại. Tầm nhìn của chúng tôi được chứa đầy một cách rất rõ ràng cả các đối tượng vật chất và các chuyển động tinh thần, và trong thế giới không phân đôi chúng không thấy có sự nghiêng lệch. Những ý nghĩ đó không phải đến từ sách vở và không phải để cho suôn sẻ; chúng được hình thành trong những xà lim và bên những đống lửa trong rừng, qua các câu chuyện với những người mà nay không còn nữa, được kiểm nghiệm bởi cuộc sống mà từ đó chúng đã sinh ra.

Còn khi áp lực bên ngoài giảm xuống – tầm nhìn của tôi và của chúng tôi được mở rộng, và dần dần, dù là qua một khe hẹp, cái “toàn bộ thế giới” đó đã được nhìn thấy và được nhận biết. Và thật kinh ngạc đối với chúng tôi, cái “toàn bộ thế giới” đó hoàn toàn không giống như chúng tôi chờ đợi, chúng tôi hi vọng: nó sống không phải “bằng cái đó”, nó đi không phải “về hướng đó”, nó thốt lên với bãi lầy hôi thối: “Ôi cái vũng nước mới đẹp làm sao!”, nó thán phục những chiếc gông bê tông đeo cổ: “Ôi vòng dây chuyền mới tinh tế làm sao!”, còn nơi số người này đang nhỏ những giọt nước mắt không thể lau khô thì những kẻ khác nhảy những điệu nhạc vô tư.

Tại sao lại xảy ra như vậy? Từ đâu trống hoác cái vực thẳm này? Chúng ta vô cảm chăng? Thế giới vô cảm chăng? Hay đó là vì sự khác biệt ngôn ngữ? Tại sao con người không có khả năng nghe được mọi lời được nói ra rõ ràng của nhau? Những lời nói cứ tắt lặng và trôi đi như nước – không mùi, không vị, không màu sắc. Không dấu vết. Trong khi tôi hiểu dần ra điều này, đã thay đổi và thay đổi cùng với năm tháng cái thành phần, ý nghĩa và giọng điệu của lời phát biểu có thể có của tôi. Của lời phát biểu ngày hôm nay của tôi.

Và nó chỉ còn giống rất ít với những gì đã được nghĩ ra lúc ban đầu trong những đêm giá lạnh ở trại tập trung.

4.

Con người từ xa xưa đã được tạo ra để cho thế giới quan của anh ta, – khi nó không bị thôi miên, – động cơ và thang giá trị của anh ta, hành động và dự định của anh ta được xác định bởi kinh nghiệm sống cá nhân và tập thể của anh ta. Một câu ngạn ngữ Nga nói: đừng tin người anh em ruột của mình, hãy tin con mắt lé của mình. Ðó chính là cơ sở lành mạnh nhất để hiểu thế giới xung quanh và cách ứng xử trong thế giới đó. Và trong suốt nhiều thế kỉ, khi thế giới của chúng ta trải rộng một cách bí ẩn, hoang vu, khi nó còn chưa có được những tuyến liên lạc thống nhất, chưa biến thành một khối co giật duy nhất, – thì con người đã ứng xử một cách không sai lầm bởi kinh nghiệm sống của mình trong cái địa phương giới hạn của mình, trong công xã của mình, trong cộng đồng của mình, và cuối cùng, trong lãnh thổ dân tộc mình. Lúc đó bằng từng con mắt người riêng rẽ có thể thấy và chấp nhận một hệ thống định giá chung nào đó: cái gì là bình thường, cái gì là phi thường; cái gì là tàn bạo, cái gì nằm ngoài phạm vi cái ác; cái gì là trung thực, cái gì là dối lừa. Và mặc dù các dân tộc rải rác sống rất khác nhau và các thang giá trị xã hội của họ có thể rất nhiều điều không trùng hợp, cũng như không trùng hợp các hệ thống đo lường của họ, nhưng những khác biệt đó chỉ làm ngạc nhiên những khách du lịch hiếm hoi và trở thành những chuyện lạ trên các tờ tạp chí mà không mang lại bất cứ một mối nguy hiểm nào cho nhân loại lúc đó còn chưa trở nên thống nhất.

Nhưng rồi qua mấy thập kỉ gần đây nhân loại bỗng đột nhiên và không ai nhận thấy trở nên thống nhất – thống nhất một cách đầy hi vọng và thống nhất một cách nguy hiểm, cho nên sự chấn động và viêm cháy của một phần nào đó của nó gần như ngay tức khắc lây chuyển sang các phần khác nhiều khi không có một mối quan hệ liên thông nào với điều đó. Nhân loại trở nên thống nhất – nhưng không phải sự thống nhất bền vững như trước đây của một công xã hay thậm chí của một dân tộc: không phải thông qua kinh nghiệm sống chậm rãi, không phải thông qua con mắt riêng được gọi là lé một cách bao dung, thậm chí không phải thông qua tiếng mẹ đẻ dễ hiểu, – mà, vượt trên tất cả các thứ rào cản, thông qua hệ thống truyền thanh và in ấn toàn cầu. Hàng núi sự kiện đổ ập lên chúng ta, chỉ sau một phút đến nửa thế giới đã biết về chúng, nhưng qua làn sóng điện và các trang báo chúng không mang truyền, – và không thể mang truyền – các thước đo – để đo và đánh giá các sự kiện đó theo quy luật của các phần thế giới xa lạ đối với chúng ta: các thước đo này mọc sâu và bám rễ quá lâu và quá đặc thù trong cuộc sống riêng của các đất nước và xã hội khác nhau, chúng không thể được truyền đi trong không khí. Tại các khu vực khác nhau người dân áp dụng thang giá trị riêng đã được kiểm nghiệm đối với các sự kiện – và kiên trì, tự tin phán xét chỉ theo thang giá trị của mình, chứ không phải của bất kì một ai khác.

Và những thang giá trị như vậy trên thế giới nếu không phải là vô số thì ít ra cũng khá nhiều: thang để đo các sự kiện gần và thang để đo các sự kiện xa; thang của xã hội già cũ và thang của xã hội mới; thang của những người may mắn và thang của những người không may mắn. Sự phân chia các thang giá trị không trùng hợp một cách ồn ào, sặc sỡ, chúng làm ta lóa mắt, và để khỏi chói đau, chúng ta quay lưng lại với tất cả các thang giá trị xa lạ như những gì điên loạn, lầm lạc, – và chúng ta tự tin phán xét cả thế giới theo thang giá trị riêng của mình. Vì thế cái mà chúng ta cảm thấy lớn lao, đau đớn và khó chấp nhận hơn không phải những gì trong thực tế lớn lao, đau đớn và khó chấp nhận hơn, mà những gì gần với chúng ta hơn. Còn cái gì ở xa, không đe dọa ngày hôm nay sẽ ập đến ngưỡng cửa ngôi nhà chúng ta, thì chúng ta sẽ coi – với tất cả những tiếng rên rỉ, kêu thét của nó, với những số phận bị hủy hoại, cho dù cả hàng triệu nạn nhân – nhìn chung là chịu đựng được và ở một chừng mực có thể chấp nhận.

Ở một phía, trong sự đàn áp không hề thua kém thời La Mã cổ đại, hàng trăm ngàn người Thiên Chúa giáo không tiếng nói cách đây không lâu đã bỏ đời mình vì niềm tin vào Chúa Trời. Ở bán cầu khác, một kẻ mất trí nào đó (và có lẽ ông ta không chỉ một mình) lại xông qua đại dương để bằng cú đòn thép nhằm vào đại linh mục giải phóng chúng ta khỏi tôn giáo! Theo thang giá trị của mình, ông ta đã tính toán như vậy cho tất cả chúng ta!

Cái mà theo một thang giá trị từ xa là tự do cao cả đáng thèm muốn, thì theo thang giá trị khác ở gần lại cảm thấy như một sự bắt buộc đáng buồn kêu gọi phải quay hướng xe. Cái mà nơi này được ước mơ như một sự phồn vinh khó tưởng tượng thì nơi khác lại gây phẫn nộ như một sự bóc lột man rợ đòi hỏi phải bãi công ngay tức khắc. Những thang đo khác nhau đối với thiên tai: cơn lũ với hai trăm ngàn nạn nhân có vẻ nhẹ hơn một trường hợp tai nạn của thành phố chúng ta. Những thang đo khác nhau đối với sự xúc phạm nhân cách: nơi thì thậm chí một nụ cười mỉa mai và một cử chỉ lảng tránh cũng đã là hạ nhục, nơi thì những trận đòn tàn nhẫn cũng có thể được bỏ qua như một trò đùa không đúng chỗ. Những thang đo khác nhau đối với sự trừng phạt, đối với tội ác. Theo một thang đo thì một tháng tù giam, hay bị gửi về nông thôn, hay không gian cá nhân, nơi thức ăn là bánh mì trắng và sữa, – đã gây chấn động tâm trí, đổ tràn phẫn nộ lên mặt các trang báo. Còn theo một thang đo khác thì tất cả những cái đó đều bình thường và được chấp nhận – cả những hạn tù lên đến hai mươi lăm năm, cả những xà lim nơi trên tường hơi nước đóng thành băng nhưng con người vẫn ở trần, cả những nhà thương điên dành cho những người khỏe mạnh, cả những loạt súng nơi biên giới bắn chết vô số những kẻ mất trí nhưng không hiểu vì sao cứ tìm cách chạy đi đâu đó. Và trái tim vẫn đặc biệt thản nhiên vì cái xứ xa lạ và quái dị ấy, nơi ta hầu như không biết một tí gì, từ đó không có tin tức gì tới được với chúng ta, mà chỉ có một số phỏng đoán mơ hồ của vài ba phóng viên ít ỏi.

Và vì cái sự tách đôi đó, vì cái sự không hiểu biết khô cứng đó đối với nỗi đau khổ xa lạ xa xôi đó, ta không thể trách cứ tầm nhìn của con người: con người sinh ra vốn vậy. Nhưng đối với cả loài người bị ép nén vào trong một khối duy nhất thì sự không hiểu biết lẫn nhau như vậy đe doạ một cái chết gần kề và nhanh chóng. Khi tồn tại sáu, bốn, hay thậm chí chỉ hai thang đo giá trị thì không thể có một thế giới thống nhất, một nhân loại thống nhất: chúng ta sẽ bị xé lẻ bởi sự khác biệt nhịp điệu, khác biệt rung động đó. Chúng ta không thể cùng sống chung trên một Trái Ðất, cũng như con người không thể sống với hai trái tim.

Nhưng ai và làm thế nào để thống nhất những thang đo đó lại? Ai sẽ tạo ra cho loài người một hệ thống đo lường thống nhất – cả cho việc dữ và việc thiện, cả cho cái chấp nhận được và không chấp nhận được, làm cách nào để vạch ra ranh giới của chúng hôm nay? Ai sẽ nói cho nhân loại biết cái gì thật sự nặng nề và không chịu nổi, còn cái gì chỉ làm ta rát mặt vì nó ở quá gần, – và hướng sự phẫn nộ tới cái đáng sợ hơn chứ không phải tới cái ở gần hơn? Ai có thể mang sự thấu hiểu đó vượt qua giới hạn của kinh nghiệm cá nhân người? Ai có thể gợi nhập vào trái tim người bướng bỉnh thủ cựu những đau khổ và niềm vui xa lạ xa xôi, sự hiểu biết những quy mô và lầm lẫn mà không bao giờ chính họ phải trải qua? Ở đây cả sự tuyên truyền, cả sự cưỡng bức, cả những chứng minh khoa học cũng bất lực. Nhưng thật may mắn là trên đời vẫn còn một phương thức có thể làm được điều đó! Ðấy là nghệ thuật. Ðấy là văn học.

Văn học và nghệ thuật có thể làm nên điều kì diệu: chế ngự được cái đặc tính riêng biệt tai hại của con người là chỉ học trên kinh nghiệm của chính bản thân mình khốn cho vốn kinh nghiệm của người khác đối với anh ta là vô ích. Chứa đầy quãng thời gian cõi đời ngắn ngủi của con người, nghệ thuật mang chuyển từ người này sang người khác toàn bộ gánh nặng kinh nghiệm sống trải lâu dài của người khác với tất cả những lo toan, sắc màu, máu thịt – và cho phép người tiếp nhận cảm nhận được như kinh nghiệm của chính mình đã trải qua.

Và thậm chí còn lớn hơn, lớn hơn như thế rất nhiều: cả những quốc gia, cả những châu lục lặp lại những sai lầm của nhau một cách muộn màng, nhiều khi muộn đến hàng thế kỉ, khi tất cả tưởng như đã hiện rõ nhãn tiền! Thế nhưng không, cái mà dân tộc này đã trải qua, đã nhận thức kĩ càng và đã loại bỏ, lại bỗng được các dân tộc khác phát hiện ra như một tiếng nói mới mẻ nhất. Và ở đây cũng vậy: cái thay thế duy nhất cho những kinh nghiệm chúng ta không tự thân trải qua là nghệ thuật, văn học. Nghệ thuật và văn học được ban cho một khả năng thần diệu: mang truyền những kinh nghiệm sống của cả một dân tộc này đến cho cả một dân tộc khác, vượt qua mọi sự khác biệt ngôn ngữ, phong tục, lối sống xã hội – cái kinh nghiệm của dân tộc này khó khăn tích lũy được qua nhiều thập kỉ mà dân tộc kia chưa bao giờ trải qua, trong trường hợp may mắn có thể giữ cho cả một dân tộc khỏi lặp lại con đường không cần thiết hay sai lầm, hoặc thậm chí là nguy hại, và nhờ vậy giảm bớt những đận quanh co của lịch sử loài người.

Về cái đặc tính cao cả vĩ đại đó của nghệ thuật, hôm nay tôi xin kiên trì nhắc đi nhắc lại từ bục diễn đàn Nobel này.

Và văn học còn mang truyền những kinh nghiệm chắt lọc không thể chối bỏ theo một hướng khác nữa: từ thế hệ trước sang thế hệ sau. Như vậy văn học trở thành kí ức sống của dân tộc. Như vậy văn học giữ ấm trong mình và lưu lại lịch sử đã bị đánh mất của dân tộc – dưới dạng không thể bị xuyên tạc và vu khống. Ðó là cách văn học cùng với ngôn ngữ gìn giữ tâm hồn dân tộc.

(Gần đây người ta hay nói về sự đánh mất bản sắc dân tộc, về sự biến mất các dân tộc trong cái chảo văn minh hiện đại. Tôi không đồng ý với điều đó, nhưng việc thảo luận về chuyện này là một đề tài khác, ở đây tôi chỉ nhân tiện nói rằng: sự biến mất các dân tộc cũng làm cho chúng ta nghèo nàn đi không kém so với việc tất cả mọi người đều có một khuôn mặt, một tính cách giống hệt nhau. Các dân tộc là tài sản của nhân loại, là những nhân cách tổng hợp của nhân loại; một dân tộc bé nhỏ nhất cũng có những bản sắc riêng, cũng mang trong mình nét riêng của Chúa Trời).

Ðau khổ cho dân tộc nào có nền văn học bị đứt đoạn bởi sự can thiệp của sức mạnh: đó không chỉ là vi phạm “tự do ngôn luận”, đó là sự khóa kín trái tim dân tộc, là sự cắt bỏ kí ức dân tộc. Dân tộc tự mình không nhớ chính mình, dân tộc bị tước mất sự thống nhất tinh thần, – và với một ngôn ngữ dường như là thống nhất, nhưng những người cùng tổ quốc bỗng không còn hiểu nhau nữa. Sẽ đi qua, sẽ chết đi hàng thế hệ câm lặng, không tự kể về mình cho chính mình cũng như cho con cháu. Nếu những bậc thầy như Akhmatova 4hay Zamatin, suốt đời bị chôn sống, cho đến lúc chết buộc phải sáng tạo trong im lặng, không nghe dư âm đồng vọng đối với những gì mình viết, – thì đó không chỉ là tai họa cá nhân họ, mà đó là sự khốn nạn cho cả dân tộc, là mối nguy hiểm đối với cả dân tộc.

Và trong những trường hợp khác – đối với cả loài người: khi vì sự im lặng đó mà toàn bộ Lịch Sử không còn được nghe hiểu!

6.

Vào những thời gian khác nhau ở các đất nước khác nhau người ta tranh luận hết sức sôi nổi, hết sức giận dữ và hết sức tinh tế về việc nghệ thuật và người nghệ sĩ có được tự mình sống cho chính mình hay phải luôn luôn nhớ đến nghĩa vụ của mình trước xã hội và phục vụ xã hội, dù là vô điều kiện. Ðối với tôi ở đây không có gì phải tranh cãi, nhưng tôi không muốn lại đưa ra các chuỗi luận chứng dài dòng. Một trong những ý kiến xuất sắc nhất về đề tài này chính là Diễn từ Nobel của Albert Camus 5 – và tôi rất vui mừng được chia sẻ những luận điểm đó. Và văn học Nga nhiều thế kỷ đã theo đường hướng ấy – không tự quá ngắm nghía mình, không bay lượn quá vô tâm, và tôi không xấu hổ tiếp tục truyền thống đó theo khả năng sức lực của mình. Trong văn học Nga từ lâu đã bắt rễ vào đầu chúng tôi một quan niệm rằng nhà văn có thể – và cần phải – là rất nhiều trong nhân dân của mình.

Chúng ta sẽ không phủ nhận quyền của người nghệ sĩ thể hiện những cảm xúc và quan sát hết sức riêng của mình và bỏ qua tất cả những gì diễn ra trong thế giới xung quanh. Chúng ta sẽ không đòi hỏi người nghệ sĩ, – nhưng chúng ta sẽ được phép trách móc, cầu xin, kêu gọi và khuyến dụ. Bởi vì tài năng của người nghệ sĩ chỉ một phần do anh ta tự mình phát triển, còn phần lớn nó được ban sẵn cho anh ta từ khi sinh ra – và cùng với tài năng là trách nhiệm đối với ý chí tự do của anh ta. Cứ cho là người nghệ sĩ không mắc nợ ai cái gì, nhưng thật đau lòng khi thấy anh ta, để rảnh rỗi đi vào những thế giới do anh ta tạo nên hay vào những khoảng không gian của những ý tưởng chủ quan, lại có thể trao cái thế giới hiện thực vào tay những kẻ hám lợi, mà có khi còn hèn hạ, có khi còn điên rồ.

Thế kỷ XX của chúng ta tàn bạo hơn các thế kỷ trước, và tất cả những điều khủng khiếp của nó chưa kết thúc cùng với nửa đầu thế kỉ. Vẫn những cảm xúc man rợ cũ xưa ấy – tham lam, ghen ghét, thô lỗ, ác ý đối với nhau, trong quá trình phát triển tự gán cho mình những tên hiệu tử tế như đấu tranh giai cấp, chủng tộc, quần chúng, công đoàn, vẫn đang xâu xé và tàn phá thế giới của chúng ta. Thái độ không nhân nhượng một cách man rợ được đưa lên thành nguyên tắc lí luận và được coi là đạo đức chính thống. Nó đòi hỏi hàng triệu nạn nhân trong các cuộc nội chiến bất tận, nó buộc vào tâm hồn chúng ta rằng không có khái niệm bền vững chung cả nhân loại về cái thiện và công bằng, rằng chúng nhất thời, chúng thay đổi, có nghĩa là anh luôn luôn cần phải hành động như thế nào đó có lợi cho đảng anh. Bất kì một nhóm chuyên nghiệp nào nếu có được thời cơ thuận tiện sẽ giật ngay một mẩu, dù là không phải do mình làm ra, dù là thừa thãi, – giật liền, dù cho cả xã hội có sụp đổ ngay. Biên độ dao động của xã hội phương Tây nếu từ ngoài nhìn vào hình như đang tiến đến gần cái giới hạn nếu vượt qua thì cả hệ thống sẽ mất ổn định và sụp đổ. Càng ngày càng ít bị bó buộc bởi những điều luật lâu đời, bạo lực đang dạo bước khắp hoàn cầu một cách trơ tráo và đắc thắng, không quan tâm đến việc rằng sự vô nghĩa và bất lực của nó đã từng được thể hiện và chứng minh trong lịch sử. Thậm chí tỏ vẻ đắc thắng không chỉ đơn thuần bạo lực thô thiển, mà cả sự bào chữa lớn tiếng cho nó: cả thế giới tràn ngập lời khẳng định trắng trợn rằng sức mạnh có thể làm được tất cả, còn lẽ phải thì chẳng làm được gì. Lũ người quỷ ám của Dostoevski – hình như chỉ là một giả tưởng tỉnh lẻ đáng sợ của thế kỉ trước – trước mắt chúng ta đang bò loang ra khắp cả thế giới, đến cả những đất nước mà chỉ tưởng tượng ra chúng cũng không thể – và bằng những vụ cướp máy bay, bắt giữ con tin, nổ bom và thiêu lửa những năm gần đây họ báo hiệu về quyết tâm xô đổ và hủy diệt nền văn minh! Và họ hoàn toàn có thể làm được. Ðám thanh niên – vào cái tuổi còn chưa có một kinh nghiệm nào khác ngoài kinh nghiệm tình dục, khi trên vai còn chưa có các năm tháng của những đau khổ riêng và hiểu biết riêng, – sẵn sàng cuồng nhiệt lặp lại những mảnh sân sau nhơ bẩn của người Nga thế kỷ XIX mà cứ tưởng là đang phát hiện ra một cái gì đó mới mẻ. Sự thoái hóa Hồng Vệ Binh đến đồi bại mới xuất hiện được họ xem như một mẫu mực đáng mừng. Sự hiểu biết hời hợt bản chất con người từ ngàn đời, sự tự tin ngây thơ của những trái tim chưa sống trải: đấy, chúng ta sẽ xua đuổi những kẻ thống trị, áp bức hung hãn, tham lam này đi, còn những người kế tiếp (chúng ta!) sẽ xếp súng gươm lại và trở thành những người công bằng và đầy thông cảm. Làm sao lại không như thế được!… Còn ai đã sống thì hiểu, ai có thể phản đối đám thanh niên này – nhiều người không dám phản đối, thậm chí nói không nên lời, chỉ sợ tỏ ra mình là người “bảo thủ”, – lại là một hiện tượng Nga thế kỉ XIX, Dostoevski gọi nó là “sự nô lệ cho những ý tưởng cấp tiến bé con”.

Tinh thần của München 6 đã không hề lui về dĩ vãng, nó không phải chỉ là một chi tiết ngắn. Thậm chí tôi còn dám nói rằng tinh thần München còn chiếm thế ưu ở thế kỉ XX. Thế giới văn minh, co rúm trước áp lực của sự man rợ vung vuốt nhe răng bỗng dưng tái xuất, không tìm ra bất kì một phương thức nào để chống lại ngoài những nhượng bộ và những nụ cười. Tinh thần München là căn bệnh ý chí của những người thành đạt, nó là trạng thái thường nhật của những kẻ khao khát sự sung túc bằng bất kì giá nào, coi cuộc sống vật chất đầy đủ như mục đích chính yếu nhất của sự tồn tại trên mặt đất. Những người như thế – mà trong thế giới ngày nay thật đông đảo – chọn cho mình thái độ thụ động và lùi bước chỉ cốt để làm sao kéo dài cuộc sống quen thuộc, để hôm nay không phải rơi vào tình thế khắc nghiệt, còn ngày mai, biết đâu sẽ qua khỏi… (Nhưng không bao giờ qua khỏi! – sự trừng phạt đối với lối sống hèn nhát chỉ sẽ tàn khốc hơn. Lòng dũng cảm và chiến thắng sẽ chỉ đến với chúng ta khi chúng ta dám hi sinh).

Chúng ta còn bị đe dọa bởi cái chết, vì người ta không để cho thế giới bị dồn nén về thể chất được hòa hợp về tinh thần, không cho các phần tử kiến thức và thông cảm được liên chuyển từ nửa này sang nửa kia. Ðây là một mối nguy hiểm đáng sợ: sự ngăn cách thông tin giữa các phần của hành tinh. Khoa học hiện đại đã biết rằng sự ngăn cách thông tin là con đường dẫn đến entropia 7, sự hủy diệt toàn thể. Sự ngăn cách thông tin làm cho các kí kết và thỏa ước quốc tế trở thành các thây ma: trong một vùng câm kín không có bất kì một thỏa ước nào đáng được bàn thảo, mà tốt hơn là quên hết chúng đi, như thể chúng chưa hề tồn tại bao giờ (điều này thì Orwell 8 hiểu rất rõ). Dường như sống trong vùng câm kín không phải các cư dân Trái Ðất, mà là một đoàn thám hiểm của Hỏa Tinh, họ không biết tí gì về phần Trái Ðất còn lại và sẵn sàng xông ra dẫm nát nó với một niềm tin thần thánh là “giải phóng” nó.

Một phần tư thế kỉ trước Liên Hợp Quốc đã ra đời trong những niềm hi vọng vĩ đại của loài người. Than ôi, trong thế giới vô đạo đức thì nó cũng đã lớn lên thành vô đạo đức. Ðó không phải là Liên Hợp Quốc, mà là Liêp Hợp các Chính phủ, nơi đánh đồng ngang nhau cả những người được bầu lên một cách tự do, cả những kẻ bị áp đặt một cách cưỡng bức, cả những kẻ tiếm đoạt chính quyền bằng vũ khí. Với sự thiên vị vụ lợi của đa số, Liên Hợp Quốc hăng hái chăm lo cho tự do của một số dân tộc này nhưng lại thờ ơ bỏ mặc tự do của các dân tộc khác. Bằng biểu quyết đầy xu nịnh, nó chối bỏ việc xem xét những khiếu nại riêng – những tiếng rên rỉ, kêu khóc và khẩn cầu của những cá nhân đơn giản là con người, những con côn trùng quá nhỏ bé so với một tổ chức vĩ đại như vậy. Cái văn kiện tốt nhất của mình trong suốt 25 năm qua – bản Tuyên Ngôn Nhân Quyền – cũng không được Liên Hợp Quốc nỗ lực biến thành điều luật bắt buộc đối với các chính phủ, thành điều kiện trở thành thành viên của họ, – và bằng cách đó đã phó mặc số phận những con người nhỏ bé vào tay những chính phủ không phải do họ bầu ra.

Có vẻ như: toàn bộ bộ mặt của thế giới hiện đại nằm trong tay các nhà bác học, tất cả những bước đi công nghệ của loài người đều do họ định đoạt. Có vẻ như: thế giới đi về đâu là phụ thuộc vào cộng đồng quốc tế các nhà bác học chứ không phải các nhà chính trị. Ðiều đó càng có vẻ rõ ràng hơn khi một số cá nhân riêng lẻ đã cho thấy họ có thể làm được thật nhiều khi họ hợp tác cùng nhau. Nhưng không, các nhà bác học đã không chứng tỏ sự nỗ lực chói sáng trở thành động lực độc lập quan trọng của loài người. Họ tránh trốn những đau khổ của người khác bằng những cuộc đại hội: ở trong giới hạn của học thuật sẽ yên ổn hơn nhiều. Vẫn cái tinh thần München ấy treo trên đầu họ những đôi cánh chùng lỏng.

Vai trò và vị trí của nhà văn như thế nào ở trong cái thế giới tàn bạo, nén chặt, sẵn sàng bùng nổ này, trên ranh giới của mười cái chết của nó? Nói chung là chúng ta không phải là những kẻ gửi tên lửa đi, thậm chí không đẩy cả toa xe phụ cuối cùng, và chúng ta bị những kẻ chỉ tôn sùng mỗi sức mạnh vật chất khinh bỉ. Có hợp lẽ tự nhiên không nếu chúng ta cũng lùi bước, từ bỏ niềm tin vào sự vững vàng của cái thiện, vào sự không thể chia cắt của chân lí, và chỉ làm mỗi một việc là chia sẻ cùng thế giới những quan sát bàng quan cay đắng của mình, rằng nhân loại đã hư hỏng một cách vô phương cứu chữa, rằng con người đã trở nên hèn mọn và những tâm hồn đẹp, tinh tế cô độc sống giữa họ thật đau khổ?

Nhưng cả sự chạy trốn đó chúng ta cũng không thể. Ðã một lần gắn bó với ngôn từ, thì sau đó sẽ không bao giờ lảng tránh: nhà văn không phải là kẻ phán xét dửng dưng đối với các đồng bào của mình và những người đồng thời với mình, nhà văn là người cùng có lỗi trong tất cả mọi cái ác diễn ra trên đất nước anh ta hoặc do nhân dân anh ta gây nên. Nếu như những chiếc xe tăng của tổ quốc anh ta làm đổ máu trên mặt đường nhựa của một thủ đô nước khác, thì những vết máu đó sẽ vĩnh viễn ném vào mặt nhà văn. Nếu như vào một đêm bất hạnh một Người Bạn cả tin đang ngủ bị thắt cổ, thì trên bàn tay nhà văn sẽ hằn vết bầm của sợi dây thừng đó. Và nếu như những đồng bào trẻ tuổi của anh ta tuyên bố một cách thản nhiên ưu thế của sự trụy lạc đối với lao động khiêm tốn, bán mình cho ma túy hay bắt cóc con tin – thì cái xú khí đó sẽ trộn lẫn vào hơi thở của nhà văn.

Liệu chúng ta có dám cả gan tuyên bố rằng mình không chịu trách nhiệm về những vết thương lở loét của thế giới ngày nay?

7.

Tuy nhiên tôi vẫn được khích lệ bởi cái cảm giác sống động của nền văn học thế giới như một trái tim lớn hòa nhịp đập trong những lo toan và tai họa của thế giới chúng ta, dù những lo toan và tai họa đó được hình dung và nhìn nhận khác nhau ở các góc khác nhau của thế giới.

Bên cạnh những nền văn học dân tộc lâu đời, cả vào những thế kỉ trước đây cũng đã tồn tại khái niệm văn học thế giới – như một đường viền chạy theo các đỉnh cao của các nền văn học dân tộc và như một tập hợp những ảnh hưởng qua lại của văn học. Nhưng có một sự chậm trễ về thời gian: những độc giả và những nhà văn biết về các nhà văn của các ngôn ngữ khác với một sự cách biệt nhiều khi đến hàng thế kỉ, cho nên các tác động ảnh hưởng lẫn nhau cũng xảy ra muộn hơn, và đường viền các đỉnh cao của các nền văn học dân tộc chỉ hiện ra trong mắt của con cháu chứ không phải của những người đương thời. Còn hôm nay giữa các nhà văn của một nước và nhà văn và người đọc của nước khác có một tác động lẫn nhau nếu như không tức thời thì cũng gần như vậy, chính bản thân tôi đã cảm nhận được điều đó. Những cuốn sách của tôi, than ôi, không được in ở trong nước, nhưng mặc dù thông qua những bản dịch vội vã và nhiều khi rất tồi, chúng đã nhanh chóng tìm được những người đọc quốc tế đầy cảm thông. Những tác phẩm của tôi đã được các nhà văn xuất chúng của Phương Tây như Henrich Böll 9 phân tích phê bình. Vào những năm gần đây, khi công việc và sự tự do của tôi không sụp đổ, vẫn trụ được dường như trong không khí chống lại các quy luật trọng trường, dường như được treo đỡ bằng những sợi dây cảm thông xã hội vô hình, hoàn toàn bất ngờ đối với bản thân, với một sự tri ân ấm áp tôi đã nhận được sự ủng hộ của cộng đồng nhà văn quốc tế. Vào ngày sinh lần thứ năm mươi của mình, tôi kinh ngạc khi nhận được những lời chúc mừng của các nhà văn Châu Âu danh tiếng. Không một áp lực nào đối với tôi đi qua mà không được nhận thấy. Trong những tuần nguy hiểm đối với tôi sau khi bị khai trừ khỏi Hội Nhà văn, bức tường bảo vệ do các nhà văn nổi tiếng thế giới dựng lên đã giúp tôi thoát khỏi những sự truy bức tồi tệ hơn. Còn các nhà văn và nghệ sĩ Na Uy đã chu đáo chuẩn bị cho tôi một nơi trú ngụ trong trường hợp tôi bị đuổi khỏi tổ quốc tôi. Và cuối cùng, chính việc đề cử tôi nhận giải Nobel đã được khởi xướng không phải ở đất nước tôi sống và viết, mà do Francois Mauriac 10 và các đồng nghiệp của ông. Và sau đó, nhiều tổ chức quốc gia các nhà văn đã lên tiếng ủng hộ tôi.

Tôi đã hiểu và đã cảm nhận ở bản thân mình điều này: văn học thế giới không còn là một đường viền trừu tượng, không còn là một khái niệm tổng hợp do các nhà nghiên cứu văn học tạo nên, mà là một thực thể và một tinh thần chung, một sự thống nhất thân tình sống động, trong đó thể hiện sự thống nhất tinh thần ngày một lớn thêm của nhân loại. Hãy còn các biên giới quốc gia cháy nóng bởi những hàng rào dây thép gai điện và những tràng liên thanh, hãy còn những bộ nội vụ cho rằng văn học cũng là “nội vụ” của những đất nước do họ quản lý, hãy còn những tít báo phô trương “họ không có quyền can thiệp vào công việc nội bộ của chúng ta!” – nhưng thực ra nói chung không còn công việc nào là nội bộ nữa trên cái Trái Ðất chật hẹp này của chúng ta. Và phương thức cứu loài người chỉ có thể là làm sao để tất cả liên thông đến tất cả: người Phương Ðông tuyệt đối không thờ ơ với việc người Phương Tây nghĩ gì; những người Phương Tây tuyệt đối không thờ ơ trước những gì xảy ra ở Phương Ðông. Và văn học nghệ thuật – một trong những công cụ tinh tế, nhạy cảm nhất của con người – đã sớm tiếp nhận, nắm bắt được cái cảm quan đó của sự thống nhất đang mỗi ngày một lớn thêm của loài người. Và bây giờ đây tôi đang tin tưởng nói với văn học thế giới ngày hôm nay – với hàng trăm người bạn mà tôi chưa một lần gặp mặt và có lẽ sẽ không bao giờ được gặp.

Hỡi các bạn! Chúng ta sẽ thử tìm cách giúp đỡ, nếu chúng ta đáng giá một cái gì đấy! Trong những đất nước của mình bị băm xé bởi những giọng điệu hỗn độn của các đảng phái, phong trào, phe nhóm, ai vốn từ khởi thủy là lực lượng không chia cắt, mà kết gắn? Ðó chính là vị thế bản chất của nhà văn: là người thể hiện của ngôn ngữ dân tộc, là lực lượng kết nối chính của dân tộc – và của miền đất nơi nhân dân anh ta sống, và trong trường hợp may mắn – là của cả tâm hồn dân tộc.

Tôi nghĩ rằng trong những giờ phút đầy âu lo này, văn học thế giới đủ sức để giúp đỡ nhân loại nhận biết một cách đúng đắn chính mình bất chấp những lời rêu rao của những cá nhân và những đảng phái đầy thiên vị; chuyển tải những kinh nghiệm được tích lũy từ khu vực này sang khu vực khác, để cho chúng ta không còn bị phân lập và hỗn loạn, để cho các thang đo giá trị trở nên thống nhất, để cho dân tộc này biết được một cách chính xác và cô đúc lịch sử chân chính của các dân tộc khác ở mức độ có thể khám phá và cảm nhận được sự đau đớn như chính họ đã trực tiếp trải qua, – và bằng cách đó tránh được những sai lầm tàn khốc về sau. Và đồng thời chính chúng ta cũng phát triển nơi bản thân mình cái nhìn thế giới: trong khi bằng trung tâm của mắt, như mọi người khác, nhìn thấy cái ở gần, thì bằng phần ngoài của mắt chúng ta bắt đầu thu nhận những gì diễn ra trong phần còn lại của thế giới. Và chúng ta sẽ tuân thủ, so sánh các tỉ lệ tương quan của thế giới.

Và còn ai nếu không phải nhà văn nói lời phê phán không chỉ đối với các nhà cầm quyền không đạt của mình (trong một số nước, đó là thứ bánh mì dễ dàng nhất, bất kì một kẻ nào nếu không lười biếng đều có thể làm việc đó), mà còn đối với cả xã hội – vì sự hạ mình hèn nhát hay sự yếu đuối đầy tự mãn mà còn đối với những trò manh động nhẹ cân của tuổi trẻ; đối với đám kẻ cướp trẻ con vung dao vẩy kéo.

Có người sẽ hỏi chúng ta: văn học có thể làm gì để chống lại sức tấn công tàn khốc của bạo lực công khai? Ðây: chúng ta không quên rằng bạo lực không sống một mình và không có khả năng sống một mình: nó nhất thiết phải kết gắn với sự dối trá. Giữa bạo lực và dối trá là một mối quan hệ sâu sắc nhất, tự nhiên nhất, ruột thịt nhất: bạo lực không có gì để che đậy ngoài dối trá, và dối trá không có gì để bấu víu ngoài bạo lực. Bất kì ai đã một lần tuyên bố bạo lực là phương thức của mình, người đó nhất định phải chọn dối trá làm nguyên tắc của mình. Khi bắt đầu sinh ra, bạo lực hành động công khai và thậm chí tỏ ra kiêu hãnh. Nhưng khi đã lớn mạnh, có chỗ đứng, nó cảm thấy gió bão rít quanh mình và không thể tồn tại tiếp mà không trốn vào trong dối trá, ngụy trang bằng những lời lẽ ngọt ngào của dối trá. Bạo lực không phải bao giờ cũng trực tiếp ra tay bóp cổ, đa phần nó chỉ đòi hỏi thần dân của nó một lời thề dối trá, một sự tham dự vào dối trá.

Và một bước giản dị của một con người dũng cảm giản gị: không tham dự vào dối trá, không ủng hộ những hành động dối trá! Cứ để nó đến và thậm chí thống trị trong thế giới – nhưng không thông qua ta! Nhà văn và nghệ sĩ còn có thể làm nhiều hơn thế: chiến thắng dối trá! Chính trong cuộc chiến đấu với dối trá, nghệ thuật bao giờ cũng đã và đang chiến thắng – hiển nhiên, không chối cãi được đối với tất cả! Dối trá có thể chống được rất nhiều thứ trên thế giới này, nhưng không thể chống được nghệ thuật.

Và khi dối trá bị xua tan – bạo lực sẽ hiện ra trần trụi một cách đáng ghê tởm – và bạo lực rệu rã sẽ sụp đổ.

Chính vì thế mà tôi nghĩ, thưa các bạn, rằng chúng ta có thể giúp đỡ thế giới trong cái giờ phút nóng bỏng này của nó. Ðừng bỏ vũ khí trốn chạy, đừng đắm mình vào cuộc sống vô tư lự – mà xông vào trận chiến! Trong tiếng Nga có những câu tục ngữ được ưa thích về sự thật. Chúng kiên trì thể hiện những kinh nghiệm dân gian nặng nề, nhiều khi thật đáng kinh ngạc:

Một lời nói của sự thật kéo chuyển cả thế giới.

Chính sự phá vỡ mang tính ảo – giả tưởng định luật bảo toàn khối lượng và năng lượng là cơ sở cho các hoạt động của tôi và lời kêu gọi của tôi gửi đến các nhà văn toàn thế giới!

(Diễn từ trên đây được gửi tới Viện Hàn lâm Thụy Điển, nhưng Alexandr Solzhenitsyn đã không thể có mặt tại buổi lễ trao tặng giải Nobel để đọc diễn từ này.)

——————————–
1 Dostoevski, Fedor Mikhailovich (1821-1881): nhà văn Nga.
2 Gulag: từ viết tắt trong tiếng Nga, chỉ hệ thống các trại giam giữ và cải tạo lao động thời Stalin (những năm 1930-1950).
3 Soloviov, Vladimir Sergeevich (1853-1900): nhà triết học, nhà thơ, nhà văn Nga.
4 Akhmatova, Anna Andreevna (1889-1966): nữ nhà thơ Nga; Zamatin, Evgheni Ivanovich (1884-1937): nhà văn Nga.
5 Camus, Albert (1913-1960): nhà văn Pháp, giải Nobel Văn học 1957.
6 Tinh thần München: München (Munich) là nơi kí hiệp ước phân chia lãnh thổ Tiệp Khắc vào năm 1938. Nghĩa bóng là thái độ thỏa hiệp với kẻ xấu, đồng lõa với cái ác để được yên thân.
7 Entropia (tiếng Hy Lạp): nghĩa là sự chuyển hóa, thay đổi, đột biến.
8 Orwell, George (bút danh: Erik Blair) (1903-1950): nhà văn Anh.
9 Böll, Henrich (1917-1985): nhà văn Ðức, giải Nobel Văn học 1972.
10 Maurriac, Francois (1885-1970): nhà văn Pháp.

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *